Qua hàng nghìn năm, Vu Lan báo hiếu luôn là một trong những ngày lễ có sức sống văn hóa mãnh liệt nhất trong đời sống tinh thần của mỗi người dân Việt Nam chúng ta. Vậy ý nghĩa ngày lễ vu lan là gì, hãy cùng tìm hiểu qua bài viết sau đây nhé.
Nguồn gốc và ý nghĩa ngày lễ vu lan
Nguồn gốc của ngày lễ Vu Lan
Trong cung bậc tri ân và báo ân của dân tộc, Phật giáo đã từ lâu luôn trân trọng và lấy hạnh hiếu làm đầu. Sự tương phùng của tinh thần đó đã dẫn dắt nên những gương hiếu hạnh trong quá khứ cũng như hiện tại, sáng rực và ghi mãi dấu ấn với thời gian.
Xem thêm: lễ vật cúng ngày lễ vu lan
Không phải ngẫu nhiên, cứ đến ngày rằm tháng bảy âm lịch hằng năm, Phật Giáo long trọng tổ chức đại lễ Vu lan – Báo hiếu thật trang nghiêm, hoành tráng từ hình thức tổ chức cho đến nội dung mang ý nghĩa nhân văn trên bình diện tâm linh – văn hóa của con người. Lễ hội xuất phát từ điển tích Phật giáo được ghi lại trong kinh Vu Lan Bồn.
“Vu Lan” là danh từ gọi tắt của “Vu Lan Bồn”, tiếng Phạn là Ullambana. “Ullam” dịch là “treo ngược” (đảo huyền), dụ cho cái khổ của người chết như bị treo ngược, cực kỳ thống khổ. Chữ “bồn” tiếng Phạn là “bana”, dịch là “cứu giúp”. Như vậy “Vu Lan Bồn” là giải cứu tội bị treo ngược.
“Báo hiếu” là sự đền đáp công đức sinh thành dưỡng dục của người con đối với cha mẹ hiện tiền và cha mẹ nhiều đời nhiều kiếp.
Lễ Vu Lan của Phật giáo như chúng ta thấy ngày nay xuất phát từ thời Đức Phật. Bằng đại bi tâm, Đức Phật đã dạy phương thức báo hiếu cho cha mẹ ở đời này và nhiều đời khác.
Kể từ khi Phật Giáo truyền vào Việt Nam, mùa Vu Lan trở thành truyền thống báo hiếu. Ngày nay, lễ Vu Lan không còn đơn thuần chỉ có ý nghĩa tôn giáo thiêng liêng mà đã trở thành “lễ hội văn hóa tình người” với bất cứ ai đang hiện hữu trên cõi đời này. Hiếu kính mẹ cha, phụng thờ tổ tiên ông bà, nối kết ân tình nghĩa cảm giữa người còn kẻ mất là truyền thống cao đẹp trong dòng chảy văn hóa tình người của dân tộc.
Ý nghĩa ngày lễ vu lan
Là người Việt Nam, hẳn là ai cũng biết đôi câu lục bát: “Công cha như núi Thái Sơn – Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”. Công sinh dưỡng của cha mẹ là vô tận. Mỗi người sinh ra và trưởng thành, đối với cha mẹ bao giờ cũng là niềm tự hào đồng thời là kết quả của những nỗ lực vượt qua bao nhiêu khó khăn vật chất – tinh thần. Công cha – nghĩa mẹ thấm sâu vào mỗi con người, mỗi gia đình, dòng họ, thấm sâu vào nền nếp sinh hoạt của cộng đồng, nên phải ứng xử sao cho xứng đáng.
Xem thêm: thơ ngày lễ vu lan báo hiếu
Là một trong các nguyên tắc của đạo lý sống, trong truyền thống dân tộc, đạo hiếu là thiết thực đối với từng người con, đâu phải chỉ lúc cha mẹ lâm chung, mà chính là những năm tháng cha mẹ còn cũng như lúc yếu đau cần luôn được phụng dưỡng cả vật chất lẫn tinh thần.
Vì thế từ ngàn xưa, qua lời ru của bà của mẹ, qua điệu hát câu hò, đạo hiếu là bài học đạo đức đầu tiên được truyền lại trong mỗi gia đình và đến ngày nay, văn hóa Việt Nam vẫn bảo lưu, gìn giữ những câu tục ngữ, ca dao khẳng định và bày tỏ lòng thành kính với bậc sinh thành: “Lên non mới biết non cao – Nuôi con mới biết công lao mẫu từ”, “Bao giờ cá lý hóa long – Ðền ơn cha mẹ ẵm bồng ngày xưa”, “Thờ cha mẹ, ở hết lòng – ấy là chữ hiếu dạy trong luân thường”, “Mẹ già ở tấm lều tranh – Sớm thăm, tối viếng mới đành dạ con”, “Chiều chiều ra đứng ngõ sau – Ngó về quê mẹ, ruột đau chín chiều”,…
Không chỉ thế, với những ai xao lãng đạo làm con hoặc mượn việc “báo hiếu” để làm điều sai trái, tiền nhân cũng nhắc nhở, chê bai: “Cá không ăn muối cá ươn – Con không nghe lời cha mẹ trăm đường con hư”, “Mẹ già hết gạo treo niêu – Mà anh khăn đỏ, khăn điều vắt vai”, “Sống thì con chẳng cho ăn – Chết thì xôi thịt, làm văn tế ruồi”…
Ngày nay tinh thần đạo hiếu uống nước nhớ nguồn luôn được đề cao, truyền thống đó luôn được bồi đắp và phát huy từ đời này qua đời khác để con cháu luôn luôn nhớ về cội nguồn